Tôi (NXH) mới gắn thêm một bộ máy tìm kiếm riêng. Do bài trong Blog nhiều, có bạn cần tìm những bài cũ. Xin mời dùng tính năng này, đặt ở đầu cột bên phải. Mặc định là tìm kiếm trong Blog E, nếu muốn dùng tìm kiếm của Google, thì bấm chọn sang phần Google.
Đánh máy từ khóa vào ô "nhập từ khóa". Chú ý quy luật tìm như Google, càng nhiều từ khóa càng thu hẹp phạm vi kết quả.
luu blog e3
Thứ Sáu, 16 tháng 1, 2015
Thứ Sáu, 26 tháng 12, 2014
LỜI CẢM TẠ
Sau mấy năm chống chọi với bệnh tật hiểm ác, cha chúng tôi là cụ Ngô Công Lãnh đã ra đi ở tuổi 86. Đó là sự mất mát vô cùng to lớn không gì có thể bù đắp được đối với gia đình chúng tôi.
Từ khi cha chúng tôi lâm bệnh đến những phút cuối đời và trong thời gian tang lễ, chúng tôi đã nhận được sự chia sẻ, động viên, giúp đỡ của các cựu học sinh lớp E chuyên toán cấp 3 Hải Hưng Khóa 1972-1975.
Thay mặt gia đình, chúng tôi xin chân thành cảm tạ Ban liên lạc cựu học sinh lớp E chuyên toán Hải Hưng 1972-1975 và toàn thể các bạn trong lớp đã đến viếng cha chúng tôi và gửi lời chia buồn tới gia đình chúng tôi.
Trong lúc tang gia bối rối, gia đình có điều gì sơ suất mong được các bạn thông cảm và lượng thứ.
Một lần nữa xin được ghi nhận tình cảm quý báu của các bạn.
(Vợ chồng Ngô Công Thành – Bùi Thị Minh)
Thứ Hai, 22 tháng 12, 2014
TIN BUỒN
Cụ Ngô Công Lãnh, thân sinh ông Ngô Công Thành - cựu học sinh lớp E chuyên toán Hải Hưng khóa 1972-1975, đã từ trần ngày 21/12/2014, hưởng thọ 86 tuổi. Lễ viếng bắt đầu từ 7h30 ngày 26/12/2014 tại Nhà tang lễ Bệnh viện 354 (phố Đội Nhân, Hà Nội). Lễ an táng tại Nghĩa trang quê nhà xã Ngũ Lão, Kim Động, Hưng Yên hồi 14h cùng ngày.
Lớp E tổ chức viếng, tập trung tại Bệnh viện quân đội 354 lúc 8h ngày 26/12/2014.
Xin gửi lời chia buồn đến ông Ngô Công Thành và gia đình.
Kính báo với bạn bè các thành viên blog E.
Chủ Nhật, 14 tháng 12, 2014
Bài thơ về mẹ
Mẹ đã đi gần hết cuộc đời
Mái tóc mẹ hai màu mưa nắng
Vai mẹ gầy run run khó nhọc
Ánh mắt mẹ nhìn tình đời lấp lánh
Đất nước qua hai lần chiến tranh
Đã có bao nhiêu bà mẹ
Đảm đang thay chồng đi đánh giặc
Đợi chờ chồng chất hoàng hôn
Con cháu mẹ nay đã lớn khôn
Có hiểu hết công ơn của mẹ
Họ làm gì để mẹ vui mẹ khoẻ
Làm gì để đền đáp mẹ, mẹ ơi
Mẹ đã sinh ra người bạn của con
Con xin được gọi mẹ là mẹ nhé
Con cũng là đứa con của mẹ
Mẹ là mẹ của chúng con...
VŨ ĐÌNH TIẾN
Chú thích: bài thơ làm khi tác gỉa đi thăm mẹ của một người bạn
Mái tóc mẹ hai màu mưa nắng
Vai mẹ gầy run run khó nhọc
Ánh mắt mẹ nhìn tình đời lấp lánh
Đất nước qua hai lần chiến tranh
Đã có bao nhiêu bà mẹ
Đảm đang thay chồng đi đánh giặc
Đợi chờ chồng chất hoàng hôn
Con cháu mẹ nay đã lớn khôn
Có hiểu hết công ơn của mẹ
Họ làm gì để mẹ vui mẹ khoẻ
Làm gì để đền đáp mẹ, mẹ ơi
Mẹ đã sinh ra người bạn của con
Con xin được gọi mẹ là mẹ nhé
Con cũng là đứa con của mẹ
Mẹ là mẹ của chúng con...
VŨ ĐÌNH TIẾN
Chú thích: bài thơ làm khi tác gỉa đi thăm mẹ của một người bạn
BÀI THƠ ANH VŨ CHÂU CỦA LÝ BẠCH
Trần Đông Phong
BẾN ANH VŨ
Bóng chim đã khuất sông Ngô
Tên chim Anh Vũ bến thơ lưu truyền
Cánh chim tây vút Lũng triền
Bến thơm cây rợp một miền xanh man
Gió thơm khói mở lá lan
Hoa đào sóng gấm vỗ tràn bờ lay
Người đi có thấy lúc nay
Trăng đơn chiếu sáng bến dài vì ai.
(TĐP dịch thơ bài Anh Vũ châu của Lý Bạch)
--
Chú thích:
- Anh vũ: Chim vẹt
- Anh Vũ châu: Bến sông Anh Vũ trên sông Trường Giang.
- Ngô Giang: Sông Trường Giang phần thuộc nước Ngô.
- Lũng sơn: Núi Lũng thuộc Cam Túc, quê của Lý Bạch.
- Anh vũ: Chim vẹt
- Anh Vũ châu: Bến sông Anh Vũ trên sông Trường Giang.
- Ngô Giang: Sông Trường Giang phần thuộc nước Ngô.
- Lũng sơn: Núi Lũng thuộc Cam Túc, quê của Lý Bạch.
Lý Bạch trong triều của Đường Minh Hoàng được trọng dụng, phát huy được tài năng như phiên dịch tiếng nước ngoài cho vua, thơ văn trác tuyệt, khiến cho tể tướng đương triều phải mài mực. Vậy nên có câu:
“Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng” (Tương tiến tửu) ( Trời sinh ra ta có tài tất được trọng dụng). Lý Bạch nổi tiếng vì bài Thanh bình điệu, nhưng lại bị gièm pha phải lưu đày vì 1 câu của bài này:
“Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng” (Tương tiến tửu) ( Trời sinh ra ta có tài tất được trọng dụng). Lý Bạch nổi tiếng vì bài Thanh bình điệu, nhưng lại bị gièm pha phải lưu đày vì 1 câu của bài này:
“Khả liên Phi Yến ỷ tân trang” (Thanh Bình điệu)
Ý là:
Khá thương nghĩ đến Triệu Phi Yến, đang tựa cửa, lúc vừa trang điểm xong.
Điều này bị coi là phạm thượng vì dám so sánh Dương Quý Phi, đại mỹ nhân của vua đương triều với người đẹp thời Hán Triệu Phi Yến bị thất sủng.
Lý Bạch lưu quan đi khắp nơi thăm danh lam thắng cảnh, đến đâu cũng được đưa đón nồng nhiệt, chu đáo, làm thơ hay, nhiều vô kể, được người đời hâm mộ, truyền tụng. Thế nên có câu:
Lý Bạch lưu quan đi khắp nơi thăm danh lam thắng cảnh, đến đâu cũng được đưa đón nồng nhiệt, chu đáo, làm thơ hay, nhiều vô kể, được người đời hâm mộ, truyền tụng. Thế nên có câu:
“Đãn sử chủ nhân năng túy khách
Bất tri hà xứ thị tha hương” (Khách trung tác)
Ý là:
Chỉ cần chủ nhân có thể làm say được khách
Chẳng có đâu là nơi đất khách quê người.
Bờ nam sông Trường Giang trên vùng đất thuộc nước Ngô thời Chiến quốc, có lầu Hoàng hạc lừng danh với bài thơ Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu trong cảnh bến sông Anh Vũ trong ráng chiều, sương khói, cỏ cây hoa lá tươi tốt, xanh mướt, man mác, thơm ngát. Lý Bạch đã phải thốt lên:
“Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu”
Ý là:
Trước mắt có cảnh nói không được
Vì thơ Thôi Hiệu đề ở trên đầu rồi.
Vì thơ Thôi Hiệu đề ở trên đầu rồi.
Ấy là nói thế, Lý Bạch đã làm một số bài thơ về lầu Hoàng hạc và cảnh vật xung quanh, như “Hoàng hạc lâu tống Mạnh Hạo nhiên chi Quảng Lăng”, Phượng hoàng đài”…. Nhưng đặc sắc nhất phải kể đến là bài “Anh Vũ châu” (Bến Anh Vũ), mà phong thái, đường nét phảng phất Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu, dường như thể hiện sự ganh đua ngầm.
Phiên âm:
ANH VŨ CHÂU
Anh vũ lai quá Ngô giang thuỷ,
Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh.
Anh vũ tây phi Lũng sơn khứ,
Phương châu chi thụ hà thanh thanh.
Yên khai lan diệp hương phong khởi,
Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh.
Thiên khách thử thời đồ cực mục,
Trường châu cô nguyệt hướng thuỳ minh ?
Lý Bạch
Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh.
Anh vũ tây phi Lũng sơn khứ,
Phương châu chi thụ hà thanh thanh.
Yên khai lan diệp hương phong khởi,
Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh.
Thiên khách thử thời đồ cực mục,
Trường châu cô nguyệt hướng thuỳ minh ?
Lý Bạch
Cũng giống như bài Hoàng hạc lâu nhiều chỗ bị thất niêm, luật, đối.
Câu 1: thất luật ở chữ thứ 4 “quá” là vần trắc, lẽ ra phải là vần bằng, vì chữ thứ 2 “vũ” là trắc rồi. Câu 2: chữ thứ 2 “thượng”, vần trắc thất niêm, lẽ ra phải bằng để niêm với chữ thứ 2 của câu trên “vũ” là vần trắc. Câu 3, 4 không đối nhau về ý, từ, nghĩa, do vậy thất đối. Tuy vậy bài thơ tuyệt hay vì âm điệukhi đọc thành lời như có nhạc, ý tứ sảng khoái, thi từ mỹ lệ, cảnh vật hùng vĩ. Đặc biệt hình ảnh chim anh vũ bay về phía tây hướng về núi Lũng nơi quê gốc của tác giả, gợi lên nỗi niềm nhớ quê man mác, bâng khuâng. Người đời yêu thích và đánh giá cao những điều tưởng như thất niêm, luật, đối đó.
Câu 1: thất luật ở chữ thứ 4 “quá” là vần trắc, lẽ ra phải là vần bằng, vì chữ thứ 2 “vũ” là trắc rồi. Câu 2: chữ thứ 2 “thượng”, vần trắc thất niêm, lẽ ra phải bằng để niêm với chữ thứ 2 của câu trên “vũ” là vần trắc. Câu 3, 4 không đối nhau về ý, từ, nghĩa, do vậy thất đối. Tuy vậy bài thơ tuyệt hay vì âm điệukhi đọc thành lời như có nhạc, ý tứ sảng khoái, thi từ mỹ lệ, cảnh vật hùng vĩ. Đặc biệt hình ảnh chim anh vũ bay về phía tây hướng về núi Lũng nơi quê gốc của tác giả, gợi lên nỗi niềm nhớ quê man mác, bâng khuâng. Người đời yêu thích và đánh giá cao những điều tưởng như thất niêm, luật, đối đó.
Điểm tương đồng thú vị, đặc sắc của của 2 bài thơ là 3 câu đầu của mỗi bài lặp lại tên của một loài chim tương ứng. Trong bài Hoàng Hạc lâu là “hoàng hạc”, còn trong bài Anh Vũ châu là “anh vũ”.
Chữ Hán:
鸚鵡洲
鸚鵡來過吳江水,
江上洲傳鸚鵡名。
鸚鵡西飛隴山去,
芳洲之樹何青青。
煙開蘭葉香風暖,
岸夾桃花錦浪生。
遷客此時徒極目,
長洲孤月向誰明?
李白
鸚鵡來過吳江水,
江上洲傳鸚鵡名。
鸚鵡西飛隴山去,
芳洲之樹何青青。
煙開蘭葉香風暖,
岸夾桃花錦浪生。
遷客此時徒極目,
長洲孤月向誰明?
李白
Dịch nghĩa:
Bến Anh Vũ
Chim anh vũ đã bay qua sông Ngô
Từ đó bến trên sông này lưu truyền tên Anh Vũ.
Chim anh vũ bay về phía tây đến núi Lũng.
Cây trên bến sông thơm ngát, tỏa bóng xanh mướt.
Khóm lá cây lan mở ra làn khói, hương thơm nổi lên.
Giáp bờ sông hoa đào sinh ra làn sóng gấm.
Lúc này người khách đi đổi quan đưa mắt nhìn ra hết mức.
Trên bến sông dài vầng trăng cô đơn hướng vào ai mà chiếu sáng?
Chim anh vũ đã bay qua sông Ngô
Từ đó bến trên sông này lưu truyền tên Anh Vũ.
Chim anh vũ bay về phía tây đến núi Lũng.
Cây trên bến sông thơm ngát, tỏa bóng xanh mướt.
Khóm lá cây lan mở ra làn khói, hương thơm nổi lên.
Giáp bờ sông hoa đào sinh ra làn sóng gấm.
Lúc này người khách đi đổi quan đưa mắt nhìn ra hết mức.
Trên bến sông dài vầng trăng cô đơn hướng vào ai mà chiếu sáng?
Français:
La berge de Ying Wu
Les perroquets (Ying Wu) sont arrivés à travers d’eau de la rivière de Wu
Sur la berge de la rivière le nom de Ying Wu a été transmis à la postérité.
Les perroquets (Ying Wu) se sont envolés vers l’ouest à la montagne de Long.
Quels verts sont les arbres de la berge odoriférante.
Les feuilles des orchidacées s’ouvrent dans le fume de rivière et le vent parfumé se lève.
Auprès du rivage les flots des fleurs de pêcher se développent.
À ce moment le fonctionnaire publique en déplacement regarde inutilement à l’extrémité de sa vision.
Sur la berge longue à qui la lune solitaire s’éclaire ?
Les perroquets (Ying Wu) sont arrivés à travers d’eau de la rivière de Wu
Sur la berge de la rivière le nom de Ying Wu a été transmis à la postérité.
Les perroquets (Ying Wu) se sont envolés vers l’ouest à la montagne de Long.
Quels verts sont les arbres de la berge odoriférante.
Les feuilles des orchidacées s’ouvrent dans le fume de rivière et le vent parfumé se lève.
Auprès du rivage les flots des fleurs de pêcher se développent.
À ce moment le fonctionnaire publique en déplacement regarde inutilement à l’extrémité de sa vision.
Sur la berge longue à qui la lune solitaire s’éclaire ?
(Traduit par Tran Dong Phong)
Notation :
Ying Wu : Perroquet
Berge de Ying Wu : La berge alluviale de la rivière de Wu
Rivière de Wu : La part de la rivière de Yangzi à la place de la province Hu Bei, Chine.
Montagne de Long : Le terrain appartient à la province de Gan Su, Chine.
(TĐP)
Berge de Ying Wu : La berge alluviale de la rivière de Wu
Rivière de Wu : La part de la rivière de Yangzi à la place de la province Hu Bei, Chine.
Montagne de Long : Le terrain appartient à la province de Gan Su, Chine.
(TĐP)
Thứ Bảy, 13 tháng 12, 2014
Báo tin: Vợ chồng Tạ Hữu Gay bị tai nạn giao thông
Theo nguồn tin từ Nguyễn Thế Ngự, cách đây vài ngày, vợ chồng Tạ Hữu Gay bị tai nạn, hai người đã cấp cứu tại Phả Lại, sau đó vợ Tạ Hữu Gay điều trị tại một bệnh viện ở Thành phố Hải Dương, nghe nói gãy xương vai (Tạ Hữu Gay đã về nhà ở Phả Lại, tai nạn bị nhẹ thôi). Tạ Hữu Gay vốn đang điều trị bệnh mãn tính, có vợ là người hộ lý tốt nhất, nay vợ bị nằm đó, thì đồng chí Gay có phần gay go hơn.
Thông báo để anh em gần xa biết, có kế hoạch đến thăm hoặc hỏi thăm, giúp đỡ.
Thông báo để anh em gần xa biết, có kế hoạch đến thăm hoặc hỏi thăm, giúp đỡ.
Chủ Nhật, 7 tháng 12, 2014
VỀ BẮC GIANG
Trần Đông Phong
QUÁN NHỎ PHỐ QUÊ
Bắc Giang, Yên Dũng, phố Tân Dân
Dã ngoại, cơm trưa, dịp cuối tuần
Diếc bạc trám đen, niêu đất mặn
Cải xanh, tôm đỏ, gạch cua vàng
Vị gừng nước đắng, vơi đâu nữa
Hương lúa rượu cay, rót nhỡ tràn
Quán nhỏ, phố quê, say bõ rượu
Cô nàng bán quán, mắt đong thần.
Dã ngoại, cơm trưa, dịp cuối tuần
Diếc bạc trám đen, niêu đất mặn
Cải xanh, tôm đỏ, gạch cua vàng
Vị gừng nước đắng, vơi đâu nữa
Hương lúa rượu cay, rót nhỡ tràn
Quán nhỏ, phố quê, say bõ rượu
Cô nàng bán quán, mắt đong thần.
(TĐP)
Sáng Chủ nhật ngày 14-9-2014 về Bắc Giang dự lễ khánh thành đình làng Cổ Mân, xã Yên Sơn, huyện Lục Nam. Cùng đi có Tuấn, Học viện chính sách phát triển, em ruột anh Lâm là nhà tài trợ 90% đình làng, Nghị, Vụ Hợp tác xã, Tiến, Vụ Kinh tế công nghiệp đều là dân Bắc Giang. Trên đường về đến thị trấn Tân Dân, huyện Yên Dũng vừa độ cơm trưa, ghé lại quán ăn bên đường. Tân Dân mới được thành lập năm 2007, nằm trên con đường từ thành phố Bắc Giang đi chùa Vĩnh Nghiêm (Đức La) nổi tiếng, nên tuy cảnh quan còn đơn sơ, nhưng người lại qua khá tập nập. Nghe nói giá đất ở đây tầm 15 đến 20 triệu/m2.
Tuấn vốn là khách quen của quán này. Cô chủ quán người gốc phố Quang Trung, thành phố Bắc Giang. Cơm toàn món chân quê như tôm sông hấp trông đỏ au với hai càng dài, trám rừng Yên Thế kho với cá diếc trong nồi đất. Kho rất khéo, trám thấm đẫm vị cá, còn cá thì nhừ nhuyễn ăn hết cả xương. Cải ngồng luộc chấm nước mắm giầm trứng luộc. May trong xe còn hai chai rượu nếp cái hoa vàng Phù Đổng thơm mùi lúa. Nước luộc cải ngồng đắng có gừng rất dã rượu, thoáng cái đã hết bát nước rau luộc, đành dùng rượu cho đỡ vị mặn của cá kho. Dặn các cậu rót rượu không để tràn vì nếu hết rượu thì không còn gì để uống. Tuy nhiên vẫn còn bát canh cua đồng phủ gạch để ăn với cà pháo muối xổi. Lúc này lại nhớ đến câu thơ của cụ Nguyễn Trung Ngạn đời nhà Trần đi sứ Trung Quốc lúc nhớ nhà: “Tảo đạo hoa hương giải chính phì”, nghĩa là “Hương thơm lúa mới cua đang béo”.
Ăn xong lại mua thêm bốn niêu cá diếc kho trám, cô chủ quán dặn về nhà nhớ đun nhỏ lửa để niêu không bị nứt, khi nào quay lại trả niêu sẽ được hoàn tiền niêu mười nghìn. Cô ta quen kho cá bằng niêu đất Phù Lãng. Trong lúc uống nước chè xanh, Tuấn hỏi anh có bài thơ nào không? Trả lời: Phố quê quán nhỏ, món ăn thuần nông rất thú vị, cứ từ từ khoai sẽ nhừ. Về đến Từ Sơn qua nhà anh Lâm, biệt thự, sân vườn mấy hécta, lại có hồ câu. Nhân tiện có cần và nhờ Tiến móc mồi. giật được mấy con cá, khá vui.
Về đến nhà, xe trát bùn đỏ, đưa đi rửa. Trong lúc đợi xe chợt có mấy ý. Phải vội về để ra bể bơi, vì có chương trình hướng dẫn bơi bướm cho cậu người Pháp. Bà vợ còn nói với theo về sớm để cùng ăn niêu cá kho. Hôm nay chỉ bơi 500 mét bướm thôi thay vì 1000 mét như mọi ngày, vì đi cả ngày và vừa khỏi viêm họng hơi mệt. Bơi xong thì hoàn thành bài thơ.
(TĐP)
(TĐP)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)