Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2014

THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU


Nhân dịp 200 năm tập thơ Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du (1813-2013)

Trần Đông Phong

Nguyễn Du (1766 – 1820) nổi tiếng với Truyện Kiều gồm 3254 câu thơ chữ nôm. Nhưng mảng thơ chữ Hán của Nguyễn Du cũng đặc sắc không kém với 249 bài gồm khoảng 3000 câu, được tập hợp thành 3 cuốn là Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục.

Năm 1813 Nguyễn Du được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc làm nhiệm vụ ngoại giao. Người ta không biết nhiều về nội dung của chuyến đi này, nhưng điều đặc biệt giá trị là 131 bài thơ (có thuyết nói 132 bài do tách bài Thăng ký thành 2 bài) Nguyễn Du sáng tác trong thời gian này với các chủ đề đa dạng về lịch sử, phong cảnh, địa danh, nhân vật…, ghi lại các địa điểm trên hành trình của Nguyễn Du trên đất Trung Quốc và được tập hợp lại thành cuốn Bắc hành tạp lục, nghĩa là Ghi chép lặt vặt về chuyến đi phương Bắc. Nói là ghi chép vặt nhưng các bài thơ này rất có giá trị về văn học, nghệ thuật, lịch sử, thể hiện tài năng xuất chúng, văn chương già dặn, ngôn từ phong phú, bút lực dồi dào, hiếm có. Năm nay là 2013 vừa tròn 200 năm chuyến đi sứ Bắc này của Nguyễn Du, cũng là bối cảnh để ra đời tập thơ Bắc hành tạp lục. Nhân sự kiện này xin giới thiệu dưới đây một bài, qua đó có thể thấy phần nào phong thái thưởng ngoạn của nhà thơ.

Quân ta thời nay sang Trung Quốc nhiều học tập, công tác, làm ăn đã có lúc nào chiêm nghiệm như nhà thơ. Thời gian 2009-2010 tôi có dịp sang Quế Lâm học tiếng Trung theo chương trình 165 của Ban Tổ chức Trung ương. Lúc rảnh rỗi cùng anh, em trong đoàn lần theo các địa danh trong thơ của Nguyễn Du để mà thưởng lãm, cũng có làm mấy bài thơ in trong cuốn Cảm Diêm Thần, sẽ giới thiệu vào một dịp khác. Dưới đây là bài thơ của Nguyễn Du. Như thường lệ phần trình bày gồm: Chữ hán, Phiên âm Hán Việt, Chú thích, Dịch nghĩa.

Nguyên tác

廣濟記勝

Quảng Tế ký thắng


Giang Nam, Hồ Bắc địa tương lân, 
Nhật nhật phồn hoa bất kí xuân
。 
Ngọc địch lâu đầu thiên thượng khúc
, 
Thùy dương môn ngoại họa trung nhân
。 
Tất bồn dục điếm khuynh phì tạo
, 
Ngọc thủ hồ cơ khoái tế lân
。 
Dục điển túc sương mưu nhất túy
, 
Nại hà đầu dĩ bạch như ngân
(Nguyễn Du)

Chú thích:


- Quảng Tế: Địa danh thuộc tỉnh Hồ Bắc
- Giang Nam: Vùng đất phía nam sông Trường Giang, nổi tiếng có nhiều cảnh đẹp, đặc sản.
- Hồ Bắc: Tỉnh phía nam sông Trường Giang.
- Túc sương: Một loài chim nước, thân màu xanh, cổ dài, giống ngỗng trời, lông dùng làm áo quý. Khi mặc trong cái lạnh mùa đông phương Bắc, trong thì ấm áp mà nhẹ, ngoài thì không thấm nước, có màu xanh mướt rất đẹp.

Dịch nghĩa:


Ghi lại cảnh đẹp ở Quảng Tế

Đất Giang Nam, Hồ Bắc gần nhau.
Ngày ngày thưởng thức cảnh phồn hoa chẳng nhớ đến mùa xuân.
Trên lầu cao nghe tiếng sáo ngọc thổi khúc nhạc trên thượng giới.
Ngoài cửa có cây thùy dương đẹp như người trong tranh vẽ.
Trong nhà có bồn tắm sơn đen, nghiêng bọt xà phòng.
Người kỹ nữ có bàn tay ngọc làm món gỏi cá băm nhuyễn.
Trước cảnh đẹp này, muốn cầm cố chiếc áo quý làm bằng lông chim để chuẩn bị một cuộc say.
Tiếc thay đầu đã trắng như bạc rồi.
(Nguyễn Du)

(TĐP – 12/2013)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét